ကြော်ငြာများထည့်သွင်းလိုပါက ဒီအကောင့်ကိုဆက်သွယ်ပေးပါ👇👇
@sithuaung2006
Last updated 1 month, 2 weeks ago
ကြော်ငြာထည့်သွင်းလိုပါက
@sithuaung2006 တခြားအကောင့်လုံးဝမသုံးပါ
Last updated 1 month, 2 weeks ago
ကြော်ငြာများထည့်သွင်းလိုပါက ဒီအကောင့်ကိုဆက်သွယ်ပေးပါ👇👇
@sithuaung2006
Last updated 6 days ago
Tàu tên lửa lớp Osa của Syria bị Israel không kích tại Latakia
Những ngọn đồi trắng xoá sau những trận pháo kích của Trung Quốc trong những năm họ tiến hành cuộc chiến xâm lược Việt Nam
TQ thử nhiệm UAV cảm tử JWS-01/ASN-301 đánh radar, dòng uav này TQ có công nghệ từ Israel và họ đã làm nó từ lâu.
Nó có trọng lượng 135kg với đầu đạn 32kg, vận tốc bay 220km/h, thời gian bay 4h.
Nếu dùng hệ thống điều khiển từ xe thì tầm hoạt động 290km, sử dụng định vị vệ tinh đánh mục tiêu theo toạ độ thì tầm tối đa được gần 1000km.Nó mang đầu đạn nổ mảnh chứa 7000 viên vonfram cùng chức năng lựa chọn mục tiêu tiêu diệt.
Năm 1994, Israel bán một lượng tương đối Harpy cho Trung Quốc. Đến năm 2004, Trung Quốc và Israel kí hợp đồng nâng cấp toàn bộ số Harpy này. Do lo ngại nguy hiểm Mỹ can thiệp vào hợp đồng , đồng thời dọa không cho Israel tham gia vào dự án JSF (dự án đa quốc gia sản xuất F-35). Sau khi cân nhắc kĩ, Israel quyết định trả lại các UAV chưa qua nâng cấp cho Trung Quốc và vẫn giữ được quyền tham gia dự án JSF. Sau cú ăn hành đó để đảm bảo tự chủ và không xảy ra chuyện này lần nữa, phía Trung Quốc đã tự mình sao chép lại thiết kế của Harpy với định danh là JWS01 ,xk là ASN-301 ,bản xk có tầm bay cắt giảm còn trên 200km so bản nội địa là 280.
Hình 3: Từ Block III của lớp Virginia, Mỹ đã giới thiệu thế hệ sonar mũi tàu mới: "Mũi tàu khẩu độ lớn" (LAB, Large Aperture Bow). Nó thay thế mảng sonar cầu hình cầu LSA lớn bằng một cấu trúc phức tạp hình móng ngựa ba chiều (cấu trúc phức tạp = sóng số phức tạp hơn), có thể lấp đầy gần như toàn bộ không gian mũi tàu hình giọt nước để đạt được khẩu độ tối đa. Mảng sonar mũi tàu tần số thấp LFBA (chân đế) biến mất, điều này có thể cho thấy LAB có khả năng tự phát hiện tần số thấp mà không cần mảng sonar bổ sung. Mảng sonar chủ động sử dụng mảng bán cầu chủ động AHA của lớp Sea Wolf, nhưng hình dạng cũng đã được thay đổi thành hình móng ngựa phức tạp hơn, vẫn chỉ có khả năng phát sóng tần số trung bình. Hải quân Mỹ cho biết sonar LAB đã chuyển từ kiểu "air-backed" sang "water-backed" — có thể đây là chỉ việc thay đổi "tấm chắn" (baffle) phía sau sonar để cách ly tiếng ồn phát sinh từ chính nó. Trước đây, khi tàu ngầm sử dụng vỏ đôi, phải bơm không khí vào tấm chắn rỗng để ngăn chặn hiện tượng phản xạ nội bộ từ các mảng sonar bên hông — điều này giúp tiết kiệm hàng trăm lỗ khí cần thiết để duy trì áp suất, từ đó mỗi tàu ngầm có thể tiết kiệm 11 triệu USD chi phí bảo trì.
Hình 4: So với mảng sonar cầu hình cầu của Mỹ, sonar mũi tàu của tàu ngầm hạt nhân Anh lại chọn mảng sonar hình móng ngựa. Mảng sonar 2001 kiểu mũi tàu được thiết kế cho tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Anh, Dreadnought (Tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Anh vào năm 1957), là một mảng sonar hình móng ngựa. Mảng 2001 có 84×4 cảm biến (tổng cộng 1176 cảm biến), dài 40 feet, cao 7 feet, được lắp đặt trên mũi tàu và nghiêng 20 độ để giảm lực cản. Nó cũng sử dụng sóng analog, có khả năng quét 120 độ theo chiều ngang và từ 0 độ đến -20 độ theo chiều dọc. Mảng sonar 2001 là loại sonar hai chế độ chủ động và bị động, trong chế độ chủ động, nó sử dụng tần số trung bình từ 2.95 đến 3.8 kHz, còn trong chế độ bị động, có thể chọn hai dải tần từ 1.6 đến 2.3 kHz và từ 5 đến 6.5 kHz, tất cả đều thuộc tần số trung bình.
Dreadnought được thiết kế là tàu ngầm hộ tống cho đội tàu, nghĩa là nó phải đi cùng với đội tàu, di chuyển với tốc độ cao và quét sạch các mối đe dọa trên mặt nước hoặc dưới nước. Khi đó, mảng sonar 2001 sẽ hoạt động ở chế độ chủ động, giúp tàu ngầm có thể di chuyển nhanh chóng (với tiếng ồn khá lớn).
Hình 1: Bên trái là tàu USS Thresher đang được đóng vào năm 1959, chiếc tàu này cùng với USS Tullibee là những tàu thử nghiệm đầu tiên của Mỹ sử dụng hệ thống sonar dạng cầu (BQS-6), có thể thấy rõ mảng sonar chủ động/tĩnh BQS-6 ở mũi tàu. BQS-6 bắt nguồn từ dự án "Hệ thống Sonar Chủ động Phản xạ Đáy Biển" vào giữa những năm 1950, yêu cầu hệ thống sonar không chỉ có khả năng chỉ định theo chiều ngang mà còn phải có khả năng chỉ định theo chiều dọc, giúp sonar tận dụng sự phản xạ từ mặt nước (lên trên) hoặc đáy biển (hướng xuống) để mở rộng phạm vi phát hiện. Việc chỉ định chùm sóng theo chiều dọc cũng hỗ trợ việc phát hiện các tàu ngầm hạt nhân có khả năng cơ động nhanh theo chiều dọc.
Ban đầu, Hải quân Mỹ định thiết kế hai mảng sonar bán cầu, lắp đặt ở trên và dưới ống phóng ngư lôi, nhưng sau đó quyết định hợp nhất chúng thành một mảng cầu lớn để ống phóng ngư lôi có thể chèn vào, nhường không gian mũi tàu. Năm 1958, hợp đồng được giao cho công ty Raytheon để xây dựng hai nguyên mẫu sonar.
Mảng sonar BQS-6 có 1245 cảm biến đơn vị, đường kính lên đến 15 feet, giúp nó có thể hoạt động ở tần số thấp nhất là 0.5 kHz. Tuy nhiên, phần lớn các chế độ của nó vẫn sử dụng tần số trên 1 kHz, và quân đội Mỹ định vị nó là sonar tần số trung bình. BQS-6 vẫn sử dụng công nghệ sóng analog, để thực hiện sóng 3D, ba bộ chuyển mạch được lắp đặt trong ba cấu trúc cầu có tỷ lệ 1/10, mỗi bộ có thể xoay đến các góc khác nhau để điều khiển hướng chùm sóng nhận. Ba bộ chuyển mạch này chịu trách nhiệm cho chế độ sonar thụ động thuần túy, chế độ nhận sonar chủ động và định hướng chính xác BDI. Sonar chủ động sẽ truyền năng lượng và điều khiển chùm sóng qua một "mạng chuyển mạch" , có thể phát sóng toàn hướng hoặc ba chùm sóng hẹp 6 độ liền kề nhau.
BQS-6 là một phần trong bộ sonar BQQ-1, bộ sonar này còn bao gồm một mảng sonar BQR-7 (góc dưới bên phải), với 52×3 cảm biến xung quanh mũi tàu tạo thành một mảng hình móng ngựa. Do độ mở (độ rộng) của BQR-7 lớn hơn rất nhiều so với BQS-6, nó có thể tiếp nhận được tiếng ồn tần số thấp từ tàu ngầm. Ban đầu, BQR-7 được thiết kế để phân tích tiếng ồn tần số hẹp từ chân vịt để nhận diện mục tiêu, nhưng sau khi tàu ngầm Liên Xô giảm bớt tiếng ồn cơ học tần số rộng (tăng cường khả năng "tĩnh lặng"), nó dần trở thành công cụ chủ yếu trong phát hiện tầm xa. BQR-7 có thể tạo ra hai chùm sóng sử dụng sóng analog, một chùm sẽ quét 270 độ liên tục để tìm kiếm mục tiêu, chùm còn lại sẽ được điều khiển bởi sonar thủy thủ để theo dõi mục tiêu.
Tàu USS Thresher và USS Tullibee là các tàu ngầm mới sau cuộc cách mạng hình giọt nước, kết hợp với bộ sonar BQQ-1 mở ra thế hệ tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Mỹ . Tuy nhiên, hai tàu này theo đuổi những hướng phát triển rất khác nhau: USS Thresher tận dụng tối đa tốc độ và khả năng cơ động của kiểu hình giọt nước, chủ yếu được sử dụng trong các cuộc tấn công hoặc chiến đấu đội tàu, để tấn công lực lượng hải quân đối phương trên mặt nước hoặc dưới nước. Trong khi đó, USS Tullibee thừa kế tinh thần của tàu ngầm SSK, sử dụng hệ thống đẩy "hạt nhân" yên tĩnh hơn , mặc dù tốc độ chậm hơn nhưng có khả năng tĩnh lặng cực kỳ cao, từ đó tăng cường khả năng phát hiện bằng sonar thụ động, đồng thời giảm khả năng bị phát hiện. Tàu này chủ yếu được dùng trong nhiệm vụ "rào chắn" để phong tỏa tàu ngầm đối phương. Sau này, tàu USS Thresher thắng thế với chiến lược đa năng, mặc dù tàu này gặp tai nạn và trở thành tàu ngầm hạt nhân đầu tiên bị đắm, nhưng đã sản xuất ra 13 tàu cùng lớp. Các tàu ngầm hạt nhân sau này đều tiếp tục phát triển theo hướng kết hợp giữa tĩnh lặng và tốc độ cao, trong khi USS Tullibee chỉ có một chiếc duy nhất.
Hình 2: Bộ sonar BQQ-1 khi kết hợp với sonar đo khoảng cách ngang BQG-1 .
ကြော်ငြာများထည့်သွင်းလိုပါက ဒီအကောင့်ကိုဆက်သွယ်ပေးပါ👇👇
@sithuaung2006
Last updated 1 month, 2 weeks ago
ကြော်ငြာထည့်သွင်းလိုပါက
@sithuaung2006 တခြားအကောင့်လုံးဝမသုံးပါ
Last updated 1 month, 2 weeks ago
ကြော်ငြာများထည့်သွင်းလိုပါက ဒီအကောင့်ကိုဆက်သွယ်ပေးပါ👇👇
@sithuaung2006
Last updated 6 days ago